Triển vọng khả quan giúp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng cao

(BKTO) - Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020 đã đi gần hết chặng đường, dù còn khó khăn nhưng kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng. Những cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới mà Việt Nam tham gia đang mở ra nhiều triển vọng khả quan cho giai đoạn tới, dù đi kèm với đó là không ít khó khăn, thách thức.




Dự báo, trong giai đoạn 2021-2025, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ đạt khoảng 7%/năm. Ảnh: TTXVN

GDP đạt mục tiêu đề ra trong giai đoạn 2016-2020

Tăng trưởng GDP của nền kinh tế đã phục hồi rõ nét sau giai đoạn 2011-2015, duy trì được tốc độ cao, đặc biệt là trong các năm 2017-2019 với tốc độ tăng trưởng đạt 6,81% năm 2017; 7,08% năm 2018 và khoảng 7,1% năm 2019 - theo kết quả nghiên cứu và dự báo của Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (NCIF) tháng 11/2019. Tính chung cả giai đoạn 2016-2020, tăng trưởng GDP vào khoảng 6,84%, đạt mục tiêu 6,5 - 7% đề ra trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020. “Đây là kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế thế giới, thương mại toàn cầu và tăng trưởng kinh tế ở hầu hết các khu vực, các nền kinh tế chậm lại” - TS. Trần Thị Hồng Minh, Giám đốc NCIF nhận định.

Nhìn từ phía cung, thực tế cho thấy, khu vực công nghiệp, xây dựng và khu vực dịch vụ đã dẫn dắt tăng trưởng chung, bù đắp cho sự giảm sút của khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản (do phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhất là năm 2016, 2019). Đóng góp của khu vực công nghiệp, xây dựng vào tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2020 đã tăng lên hơn 44%, trong khi giai đoạn 2011-2015 chỉ đóng góp khoảng 39,9%. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo mặc dù có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại do sức cầu bên ngoài giảm sút nhưng vẫn đạt mức tăng khá, trung bình 12,8%/năm trong giai đoạn 2016-2020, giúp đóng góp 32% vào tăng trưởng GDP.

Từ phía cầu, tăng trưởng kinh tế đạt cao nhờ tiêu dùng tăng cao hơn và thặng dư thương mại lớn hơn giai đoạn trước. Xuất khẩu duy trì tốc độ tăng trưởng khá, đặc biệt là ở một số thị trường đối tác của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và thị trường Mỹ. Trong bối cảnh thương mại quốc tế giảm sút, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung diễn biến khó lường thì kết quả đạt được cho thấy Việt Nam đã tận dụng được hiệu quả từ các FTA và cơ hội từ diễn biến của kinh tế thế giới. Đầu tư tư nhân trong nước và dòng vốn FDI tăng nhanh với cơ cấu dịch chuyển theo hướng tích cực. Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2020 còn được thúc đẩy bởi sự cải thiện của năng suất tăng trung bình 5,8%/năm (giai đoạn 2011-2015 chỉ là 4,3%/năm) và hiệu quả đầu tư khi hệ số ICOR trung bình của cả giai đoạn là 6,11. Nền tảng kinh tế vĩ mô được củng cố với lạm phát ở mức thấp, dưới 4%.

Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2020 chưa thay đổi rõ nét và vẫn phụ thuộc vào vốn với tỷ lệ vốn đầu tư/GDP ở mức cao, trung bình 33,5% và đóng góp của nhân tố vốn trong tăng trưởng vẫn chiếm tỷ lệ lớn, trên 55%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch quá nhanh sang khu vực dịch vụ trong khi nền tảng công nghiệp còn yếu. Đóng góp của các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao còn thấp, chi phí logistics cao. Xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào nhóm hàng do DN FDI dẫn dắt, kim ngạch tăng nhưng hàm lượng nội địa trong xuất khẩu không tăng tương ứng. Các DN trong nước chưa tham gia nhiều vào chuỗi giá trị toàn cầu…

Dự báo tăng trưởng khoảng 7%/nămtrong giai đoạn tới

Bước vào giai đoạn 2021-2025, kinh tế Việt Nam được dự báo có nhiều thuận lợi và khó khăn đan xen. Cách mạng công nghiệp 4.0 lan rộng và việc tham gia các FTA thế hệ mới được kỳ vọng sẽ mang lại nhiều cơ hội phát triển kinh tế cho Việt Nam.

Nghiên cứu của NCIF cho thấy, việc tham gia các FTA, đặc biệt là CPTPP và EVFTA (Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU) sẽ tác động sâu, rộng đến nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021-2025 và sau đó. Bởi cả hai hiệp định đều có lĩnh vực cam kết tương đối rộng, không chỉ nằm trong lĩnh vực trao đổi, xuất nhập khẩu mà còn liên quan đến cách thức sản xuất hàng hóa. Trong đó, EVFTA có thể giúp GDP Việt Nam tăng thêm 4,3% và CPTPP có thể giúp tăng thêm 1,3% vào năm 2030. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đến năm 2030 dự kiến sẽ tăng thêm khoảng 44,4% và xuất khẩu sang các nước trong CPTPP đến năm 2035 tăng 14,3%. Cùng với những tác động tích cực tới lao động, nhất là với những ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày, các hiệp định này cũng tạo động lực cải cách thể chế và môi trường kinh doanh, qua đó tạo thêm những hiệu ứng tích cực đối với phát triển kinh tế Việt Nam trong trung và dài hạn - TS. Đặng Đức Anh, Phó Giám đốc NCIF chia sẻ.

Tuy nhiên, trong trung hạn, theo TS. Anh, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn khi tiếp tục chịu tác động tiêu cực do kinh tế toàn cầu giảm tốc, bảo hộ thương mại và xung đột thương mại gia tăng. Hoạt động xuất khẩu và đầu tư đứng trước nhiều rủi ro. Trong nội tại nền kinh tế, mô hình tăng trưởng chưa thoát khỏi quán tính tăng trưởng theo chiều rộng; hiệu quả sử dụng vốn, nhất là hiệu quả đầu tư công chưa cao; khả năng cạnh tranh yếu; năng lực đổi mới sáng tạo thấp… Đây vẫn sẽ là những rào cản đối với việc duy trì tốc độ tăng trưởng bền vững trong thời gian tới.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá những thuận lợi và khó khăn, các chuyên gia của NCIF đã dự báo trong giai đoạn 2021-2025, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ đạt khoảng 7%/năm; kinh tế vĩ mô về cơ bản ổn định, lạm phát ở mức khoảng 3,5 - 4,5%/năm. Năng suất lao động được cải thiện hơn với tốc độ tăng khoảng 6,3%/năm. Nếu kết quả tăng trưởng đạt được như dự báo này, đến năm 2025, GDP bình quân đầu người của Việt Nam sẽ đạt khoảng 4.688 USD, đưa Việt Nam gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao - TS. Trần Thị Hồng Minh nhận định.

QUỲNH ANH
Cùng chuyên mục
Triển vọng khả quan giúp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng cao