Việt Nam cần cân nhắc khi quy định về vốn mỏng cho mọi doanh nghiệp

(BKTO) - Tổng cục Thuế sẽ nghiên cứu việc xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay với đặc thù của DN Việt Nam. Tuy nhiên, DN của Việt Nam thường vay gấp 3->4 lần vốn chủ sở hữu, thậm chí có thể vay tới 7->8 lần. Do đó, Việt Nam cần cân nhắc khi quy định về vốn mỏng áp dụng cho tất cả DN.



                
   

Tổng cục Thuế: Quy định về quan hệ liên kết phải đảm bảo chống vốn mỏng. Ảnh minh họa.

   

Thời gian qua, một số cơ quan báo chí phản ánh Hiệp hội DN tỉnh Thái Nguyên cho rằng quy định quản lý thuế đối với DN có giao dịch liên kết đang khiến khoảng 7.800 DN trong tỉnh “mắc cạn”.

Về nội dung trên, Tổng cục Thuế cho biết: Vấn đề xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay được quy định tại Thông tư số 117/2005/TT-BTC hướng dẫn thực hiện các quy định về việc xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Thông tư số 66/2010/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết (Thông tư 66). Nghị định số 20/2017/NĐ-CP (Nghị định 20) và Nghị định số 132/2020/NĐ-CP (Nghị định 132) quy định về quản lý thuế đối với DN có giao dịch liên kết.

Tổng cục Thuế khẳng định, đây không phải là quy định mới về xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay. Trong đó, Nghị định 20 và Nghị định 132 còn nâng mức tỷ lệ cao hơn so với quy định tại Thông tư 66 (từ 20% lên mức 25%). Cụ thể:

Điểm e khoản 4 Điều 3 Thông tư 66 quy định: “Một DN bảo lãnh hoặc cho một DN khác vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào với điều kiện khoản vốn vay ít nhất bằng 20% vốn đầu tư của chủ sở hữu của DN đi vay và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn của DN đi vay".

Điểm d khoản 2 Điều 5 Nghị định 20 và điểm d khoản 2 Điều 5 Nghị định 132 quy định: “Một DN bảo lãnh hoặc cho một DN khác vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào (bao gồm cả các khoản vay từ bên thứ ba được đảm bảo từ nguồn tài chính của bên liên kết và các giao dịch tài chính có bản chất tương tự) với điều kiện khoản vốn vay ít nhất bằng 25% vốn góp của chủ sở hữu của DN đi vay và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn của DN đi vay”.

Do đó, đây không phải là quy định mới gây khó khăn cho các DN khi xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay như Hiệp hội DN tỉnh Thái Nguyên đã đề cập.

Khi xác định 2 DN có mối quan hệ liên kết thì giao dịch phát sinh giữa 2 DN này là giao dịch liên kết và phải thực hiện kê khai xác định giá giao dịch liên kết theo quy định.

Đồng thời, nếu DN có giao dịch liên kết, chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế sẽ áp dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị định 20 (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 68/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 8 Nghị định 20) và khoản 3 Điều 16 Nghị định 132.

Tuy nhiên, do nhiều DN Việt Nam chủ yếu hoạt động bằng việc vay vốn ngân hàng với mức vốn vay lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu nên nhiều DN được xác định có mối quan hệ liên kết với DN là các ngân hàng khi vay vượt 25% vốn góp của chủ sở hữu và chiếm trên 50% tổng các khoản nợ trung và dài hạn.

Tổng cục Thuế cũng nhận được một số câu hỏi của các cục thuế về việc xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay, trong đó có xác định mối quan hệ liên kết vay giữa DN với ngân hàng với mức vốn vay trên 25% vốn chủ sở hữu.

Trong đó, giao dịch xác định chi phí lãi vay với ngân hàng theo nguyên tắc giao dịch độc lập không phải là vướng mắc của DN. Vấn đề là ở việc khi xác định có quan hệ liên kết theo vốn vay với ngân hàng, DN và ngân hàng phát sinh giao dịch sẽ được xác định là giao dịch liên kết, chi phí lãi vay được trừ của DN sẽ áp dụng khống chế theo quy định của Nghị định.

Tổng cục Thuế thấy rằng, việc xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay với đặc thù của DN Việt Nam sẽ phải nghiên cứu (có thể nâng mức cao hơn - không giữ ở 25% như hiện tại) để phù hợp hơn với đặc thù của DN Việt Nam hoạt động chủ yếu bằng vốn vay.

Tuy nhiên, việc nghiên cứu này cần cân nhắc do Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 đã đưa ra nhiệm vụ, giải pháp như: nghiên cứu, xây dựng các quy định khắc phục tình trạng "vốn mỏng", chuyển giá, đầu tư "chui", đầu tư "núp bóng"…

Hơn nữa, Tổng cục Thuế đã trao đổi với các chuyên gia Dự án RARS (Dự án Hỗ trợ hiện đại hoá hệ thống thuế) về vấn đề vốn mỏng có nên áp dụng cho tất cả DN Việt Nam hay không.

Các chuyên gia Dự án RARS khuyến nghị rằng, tại Việt Nam, các DN thường vay nhiều, “mức thị trường” không phải là vay gấp 3->4 lần vốn chủ sở hữu mà có thể có thể tới 7->8 lần. Do đó, Việt Nam cần cân nhắc khi quy định về vốn mỏng áp dụng cho tất cả DN./.

THÙY ANH
Cùng chuyên mục
Việt Nam cần cân nhắc khi quy định về vốn mỏng cho mọi doanh nghiệp