Gói tín dụng 285.000 tỷ đối phó Covid-19: Giải ngân liệu có khả quan?

(BKTO) - Hưởng ứng Chỉ thị số 11/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19 của Thủ tướng Chính phủ, hệ thống các tổ chức tín dụng đã cam kết triển khai gói tín dụng ưu đãi lên tới 285.000 tỷ đồng. Nhưng điều khiến nhiều chuyên gia kinh tế lo lắng trong lúc này lại là liệu các doanh nghiệp và khách hàng có thể hấp thụ được gói tín dụng ưu đãi rất lớn này hay không?



                
   

Ảnh minh họa

   

Gói tín dụng ưu đãi 285.000 tỷ đồng

Trong Chỉ thị số 11/CT-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã giao Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời các tổ chức tín dụng cân đối, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh,kịp thời áp dụng các biện pháp hỗ trợ như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét miễn giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ, giảm phí đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19.

Theo ông Nguyễn Quốc Hùng - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước, hiện tại các ngân hàng đã đăng ký tổng cộng 285.000 tỷ đồng để tung gói tín dụng lãi suất ưu đãi hỗ trợ khách hàng, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. “Các ngân hàng sẽ dùng biện pháp giảm bớt chi phí của mình để hỗ trợ doanh nghiệp, giảm lãi suất từ 0,5- 1%. Nguồn vốn sẽ do ngân hàng tự cân đối và không sử dụng vốn Ngân sách, hiện nay các ngân hàng đều đăng ký tham gia và kỳ này là tham gia thật”, ông Hùng nhấn mạnh.

Hiện tại, một số ngân hàng đã bắt đầu triển khai gói tín dụng ưu đãi lãi suất cũng như chính sách miễn, giảm lãi vay với các khoản dư nợ hiện tại của doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Đại diện Vietinbank cho biết, đánh giá bước đầu, tổng dư nợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 là 104.970 tỷ, chiếm 11,4% tổng dư nợ toàn ngân hàng. Hiện Vietinbank đang xem xét cơ cấu lại gần 20.000 tỷ tiền nợ và miễn giảm hơn 26.800 tỷ lãi vay cho các khách hàng. Ngân hàng này cũng dự tính dành 15.000 tỷ đồng và 150 triệu USD để cho vay ngắn hạn với lãi suất 5% bằng VNĐ và 2,8% bằng USD. Ngoài ra, đến hết 30/6, tùy theo mức độ ảnh hưởng của dịch bệnh tới doanh nghiệp, ngân hàng sẽ giảm trừ lãi suất 1,25-3%/năm so với sàn lãi cho vay thông thường (trong thời gian tối đa 6 tháng).

Đại diện BIDV cũng cho biết, ngân hàng đã triển khai gói tín dụng ngắn hạn hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, quy mô 20.000 tỷ đồng và 100 triệu USD. Với gói cho vay này, BIDV sẽ giảm lãi suất tối thiểu 1%/năm bằng VNĐ và 0,5%/năm bằng USD so với lãi cho vay cùng kỳ hạn đang áp dụng. Trước đó, ngân hàng này cũng đã tung gói tín dụng 5.000 tỷ dành riêng cho các khách hàng cá nhân bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.

Đại diện Sacombank cũng cho biết, ngân hàng đã áp dụng gói tín dụng 10.000 tỷ đồng với lãi suất giảm 2%/năm. Tùy vào phương án kinh doanh và sử dụng nguồn vốn, lãi tối thiểu cho vay ngắn hạn với doanh nghiệp nhà băng này áp dụng sẽ là 6,5%/năm và 8,5%/năm với cá nhân.

Các ngân hàng cho biết các gói tín dụng này áp dụng đến hết tháng 6 năm nay hoặc tới khi hết dư nợ trong gói.

Khả năng hấp thụ không dễ

Tuy nhiên, theo các chuyên gia tài chính, dù gói tín dụng này là rất cần thiết trong điều kiện thị trường đang khó khăn, nhưng việc hấp thụ được lượng vốn hàng trăm nghìn tỷ này không dễ.

Chính Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế Nguyễn Quốc Hùngcũng thừa nhận con số 285.000 tỷ đồng là con số đăng ký, còn thực tế nền kinh tế có hấp thụ được hay không cũng là vấn đề. Theo dữ liệu của Ngân hàng Nhà nước, trong 2 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống mới đạt 0,06%, giảm so với mức tăng 1% cùng kỳ năm trước. Ông Hùng cho rằng, mức tăng trưởng tín dụng thấp cho thấy các doanh nghiệp đang gặp khó khăn và phải thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh do dịch bệnh.

Chuyên gia tài chính Nguyễn Trí Hiếu cũng nhận định, hiện nay hoạt động của nhiều doanh nghiệp đang bị ngừng trệ, thậm chí dừng hẳn, vì vậy nhu cầu vay vốn trên thị trường không nhiều. “Khó khăn hiện tại không phải vấn để của thị trường tiền tệ mà là thị trường hàng hóa đang bị ngưng trệ. Thị trường tiền tệ chỉ đóng góp, hỗ trợ một phần để nền kinh tế vượt qua khó khăn chứ không thể giải quyết được vấn đề, vì tất cả chuỗi cung ứng toàn cầu đều đang chậm lại”, ông Hiếu nói.

Cùng quan điểm, TS. Bùi Quang Tín - Đại học Ngân hàng TP. HCMcho rằng, thị trường khó có thể hấp thụ được lượng vốn hàng trăm nghìn tỷ này trong một sớm một chiều. Nguyên nhân bởi nhu cầu vay vốn mở rộng kinh doanh hiện rất ít, trừ một số ngành dịch vụ như chứng khoán, bất động sản… Còn lại các ngành sản xuất phụ thuộc nguyên liệu nước ngoài, xuất nhập khẩu, du lịch, giao thông vận tải… đều khó có nhu cầu vay mới. “Chủ yếu các doanh nghiệp đang trong giai đoạn cầm chừng để vượt qua dịch bệnh nên sẽ không vay thêm tiền từ tín dụng để phát sinh lãi suất”, ông Tín nói.

Ở một khía cạnh khác, Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long cho rằng, Chỉ thị số 11/CT-TTg đã được ban hành kịp thời, song cần khẩn trương xây dựng các tiêu chí thực thi và tính toán cách thức thực hiện thật hiệu quả, đặc biệt là khâu giám sát để tránh các rủi ro với nền kinh tế.

“Tổng gói tín dụng này là 280.000 tỷ đồng, số tiền rất lớn với nền kinh tế hiện nay. Nên nhớ, chúng ta đã từng có gói kích thích kinh tế 18.000 tỷ đồng năm 2009. Bên cạnh những kết quả tích cực, việc thực hiện gói kích thích kinh tế năm 2009 cũng đã để lại nhiều bài học và buộc chúng ta phải cẩn trọng trong giai đoạn hiện nay, trong đó, hai rủi ro lớn nhất là trục lợi chính sách và lạm phát”, ông Ngô Trí Long nói.

Về khía cạnh thực thi chính sách, theo ông Long, điều quan trọng nhất là phải xác định đúng đối tượng thụ hưởng với những tiêu chí xác đáng và cụ thể để tránh tình trạng hỗ trợ “sai địa chỉ”. Việc hỗ trợ không đúng đối tượng có thể gây nguy cơ dòng tiền chảy vào những kênh đầu tư không hiệu quả hoặc kém bền vững, từ đó không bảo đảm chất lượng tăng trưởng và rủi ro lạm phát tăng cao sau khi triển khai xong các gói chính sách này.

Về vấn đề lạm phát, Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 2 tháng vẫn ở mức khá thấp trong khi lực cầu có xu hướng suy yếu nên rủi ro lạm phát hiện tại là không cao. Tuy nhiên, về dài hạn, nếu việc thực thi chính sách hỗ trợ kém hiệu quả, nguồn tiền không đổ vào những lĩnh vực sản xuất tạo giá trị bền vững cho tăng trưởng kinh tế thì lạm phát có thể trở thành mối lo ở giai đoạn sau.

Theo nhiều chuyên gia kinh tế, lúc này doanh nghiệp đang gặp khó khăn về cả nguồn cung và cầu. Nguồn nhập khẩu nguyên vật liệu đang bị hạn chế trong khi nhu cầu tiêu thụ và xuất khẩu không cao. Do đó, hỗ trợ doanh nghiệp bằng các giải pháp cải thiện cung và cầu là điều quan trọng nhất hiện nay. Tiếp đó mới đến việc giám sát chặt việc sử dụng nguồn hỗ trợ để bảo đảm hiệu quả chính sách.
ĐÔNG SƠN (tổng hợp)
Cùng chuyên mục
Gói tín dụng 285.000 tỷ đối phó Covid-19: Giải ngân liệu có khả quan?