Kinh tế Mỹ trước "bóng ma" suy thoái

(BKTO)- Nền kinh tế Mỹ đã hứng một đòn đau chưa từng có trong thời kỳ hiện đại vì Covid-19. Tỷ lệ thất nghiệp, vốn chỉ ở mức 3,5% trong tháng 2 có thể tăng vọt lên hơn 10% trong những tháng tới, cao hơn mức đỉnh trong cuộc suy thoái 2008-2009. Một số người còn dự báo nó sẽ sớm vượt qua 20%, mức chưa từng thấy kể từ Đại suy thoái.



                
   

Theo số liệu công bố tính đến ngày 26/3 đã có 3,3 triệu người thất nghiệp tại Mỹ - Nguồn: Sưu tầm

   

Không giống các cuộc suy thoái bình thường

Nhìn vào những con số trên vẫn chưa thể kết luận rằng đây là những chỉ báo nền kinh tế Mỹ sẽ rơi vào một cuộc suy thoái tiếp theo, thay vì một cú sốc kinh tế tạm thời. Mọi thứ không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ thất nghiệp trong một hoặc hai tháng tới mà nó duy trì trong bao lâu. Có hai yếu tố tác động đến điều này, bao gồm: Mỹ mất bao lâu để ngăn chặn đại dịch và liệu các DN và người lao động, với sự trợ giúp của chính phủ, có thể vượt qua nổi thời gian này hay không.

Những khó khăn mà Mỹ đang gặp không giống các cuộc suy thoái trước - khi các DN và người tiêu dùng không sẵn sàng chi tiêu. Lần này, với Covid-19, họ không thể chi tiêu. Covid-19 giống như một thảm họa tự nhiên, kiểu một cơn bão đóng cửa toàn bộ khu vực bị ảnh hưởng. Thông thường, DN và người dân chỉ xem một thảm họa tự nhiên là tạm thời và vực dậy nhanh chóng. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa Covid-19 và một cơn bão là đại dịch khiến gần như hoạt động kinh doanh trên cả nước đình trệ và có thể kéo dài việc này trong nhiều tháng.

Các chuyên gia kinh tế Mỹ cũng không có kinh nghiệm nhiều về ảnh hưởng kinh tế gây ra bởi đại dịch, nhưng họ biết rất nhiều về ảnh hưởng do thiên tai. Ví dụ, một tuần sau khi cơn bão Harvey đổ bộ vào năm 2017, thu nhập của các DN điển hình ở Houston giảm đến 63% và 31% không có thu nhập, theo nghiên cứu của JPMorgan Chase Institute. Hay như, hai tuần sau khi bão Irma tấn công Florida, thu nhập của các DN tại Miami đã giảm 82% và 41% không có thu nhập.

Cùng với đó, chi tiêu của các DN cũng giảm đáng kể, nhằm bảo toàn phần nào dòng tiền. Nhưng chỉ trong vòng một tuần, dòng tiền trở lại bình thường ở cả hai thành phố. Có một sự gia tăng sa thải lao động tạm thời, đặc biệt ở Houston, nhưng không tạo ra vệt sa thải kéo dài hay ảnh hưởng đáng kể.

Song, JPMorgan Chase Institute lại không nghiên cứu về cơn bão Katrina năm 2005, vốn để lại vết sẹo kinh tế kéo dài hơn. Khi ấy, việc làm tại New Orleans ngay lập tức sụt giảm 30%. Hai năm sau, chỉ một nửa số việc làm được khôi phục, và một phần ba DN đóng cửa vĩnh viễn.

Do đó, ưu tiên bây giờ là tránh số phận lặp lại như hậu Katrina đối với New Orleans. Điều đó đòi hỏi các DN phải chờ đợi được cho đến khi tình trạng khẩn cấp của đại dịch kết thúc.

Hầu hết người lao động Mỹ có kỹ năng và kinh nghiệm cụ thể cho công việc hiện tại của họ. Càng mất nhiều thời gian để tìm việc mới thì vốn nhân lực của họ càng hao mòn, ảnh hưởng tiêu cực lâu dài đến thu nhập và chi tiêu. Nghiên cứu của JPMorgan Chase Institute phát hiện ra rằng, những người thất nghiệp từ 6 tháng trở lên đã cắt giảm chi tiêu 13% mỗi năm sau khi mất việc, so với mức 1% của những người thất nghiệp dưới 6 tháng. Sức mua giảm làm suy thoái kinh tế, khiến tỷ lệ thất nghiệp còn cao hơn.

Theo nghiên cứu của OECD, trong các lần suy thoái trước, tỷ lệ thất nghiệp tăng ít hơn ở những quốc gia mà người lao động cho rằng suy thoái chỉ là tạm thời. Một ví dụ đáng chú ý là Đức, nơi người sử dụng lao động được khuyến khích giảm giờ làm cho công nhân thay vì cắt giảm công nhân.

Theo truyền thống, Mỹ không trợ cấp cho người sử dụng lao động để giữ lại người lao động. Thay vào đó, họ thích trợ cấp cho người thất nghiệp để tìm việc mới. Gói giải cứu kinh tế trị giá hơn 2.000 tỷ USD lần này đã phá vỡ truyền thống đó. Nó cũng bao gồm tiền cho trợ cấp thất nghiệp, nhưng dành nhiều tiền hơn để ngăn cản doanh nghiệp sa thải công nhân.

Để kế hoạch thành công, các quan chức liên bang phải nhanh chóng thực hiện quy trình xử lý và phê duyệt hiệu quả. Tuy vậy, vẫn còn câu hỏi hóc búa hơn là bao giờ đại dịch được kiểm soát triệt để. Trong khi giải pháp cách ly xã hội dường như đã làm chậm được sự lây lan và tử vong ở những điểm nóng như Washington, thì nhiều khu vực khác vẫn còn ở giai đoạn đầu của bùng phát. Virus vẫn có thể quay trở lại nhiều tháng sau đó, khiến lại phải cách ly xã hội lần nữa. Nếu vậy, gói 2.000 tỷ USD tuần trước có thể không đủ.

Sẽ áp dụng những biện pháp chưa tiền lệ để phục hồi kinh tế

Phát biểu trước truyền thông, Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) - Jerome Powell cũng khẳng định: Nền kinh tế Mỹ có thể rơi vào thời kỳ suy thoái, nhưng Fed sẽ áp dụng các biện pháp chưa từng có tiền lệ để các hoạt động kinh tế phục hồi nhanh chóng ngay khi đại dịch Covid-19 được kiểm soát. Ông Powell cho rằng, ưu tiên hàng đầu của DN là phải kiểm soát sự lây lan của virus và sau đó khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh.

Chủ tịch Fed dự báo hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ giảm đáng kể trong quý II/2020 và Fed có nhiệm vụ đảm bảo doanh nghiệp ở mọi quy mô có thể tiếp cận hỗ trợ, kể cả thông qua các chương trình cho vay khẩn cấp mà Fed đã triển khai, để nền kinh tế có thể phục hồi nhanh hơn. Các quan chức Fed đang nỗ lực hỗ trợ DN tiếp cận các nguồn vốn, nhằm ngăn nguy cơ biến một cuộc suy thoái toàn cầu nghiêm trọng do Covid-19 thành cuộc khủng khoảng toàn diện.

Đơn cử, Fed đã hạ lãi suất cơ bản về 0 và tung ra một loạt chương trình hỗ trợ cho vay. Trong 2 tuần qua, ước tính Fed đã mua vào gần 1.000 tỷ USD trái phiếu kho bạc Mỹ và chứng khoán được đảm bảo bằng thế chấp. “Khi dòng tín dụng ngừng chảy, trong trường hợp đặc biệt chúng tôi có thể tạm thời can thiệp và cung cấp các khoản vay. Chúng tôi sẽ tiếp tục thực hiện điều đó một cách mạnh mẽ như đã từng làm trước đây”, ông Powell khẳng định.

Chính quyền và Quốc hội Mỹ mới đây đã thống nhất cung cấp khoản hỗ trợ bổ sung 454 tỷ USD cho Bộ Tài chính để mở rộng các chương trình cho vay hiện nay và chương trình mới của Fed, bao gồm chương trình hỗ trợ cho vay đối với DN quy mô nhỏ và cải thiện thị trường tài chính của các bang và địa phương.

Ông Powell cho biết có thể mỗi USD hỗ trợ cho vay mà Fed nhận được từ Bộ Tài chính, có thể tăng lên thành 10 USD dưới dạng khoản vay mới. Điều này có nghĩa giói kích thích 2.000 tỷ mà Thượng viện vừa thông qua có thể nhân lên thành hơn 4.000 tỷ USD dưới các chương trình cho vay khác nhau.

Đến nay, Bộ Tài chính mới cam kết cung cấp 50 tỷ USD cho 5 chương trình cho vay riêng biệt của Fed từ nguồn tiền có sẵn trong tay Bộ trưởng Tài chính, được gọi là Quỹ Ổn định Hối đoái (ESF) và không cần đến sự chấp thuận của Quốc hội. Chủ tịch Fed cho rằng thời điểm các hoạt động kinh tế có thể hồi phục trở lại phụ thuộc vào các chuyên gia y tế cộng đồng. “Đây là một tình huống éo le. Nó không giống các cuộc suy thoái thông thường. Chúng tôi đã đề nghị mọi người hoãn các hoạt động sản xuất kinh doanh để đầu tư chăm sóc sức khỏe”.

Tuy nhiên, những lo lắng về sức khỏe của nền kinh tế lớn nhất thế giới trước đại dịch cũng có thể vơi bớt phần nào khi cơ quan xếp hạng tín nhiệm quốc tế Standard & Poor's (S&P) ngày 2/4 vẫn khẳng định mức xếp hạng AA đối với nợ dài hạn của Mỹ bất chấp việc quốc hội nước này mới đây thông qua gói cứu trợ kinh tế kỷ lục trị giá 2.200 tỷ USD. S&P cho biết không có ý định thay đổi mức đánh giá trong thời gian này do triển vọng ổn định. Trong tuyên bố ra cùng ngày, S&P nêu rõ: "Việc xếp hạng nợ của Mỹ phản ánh nền kinh tế đa dạng và có thể phục hồi, sự linh hoạt của chính sách tiền tệ sâu rộng cũng như vị thế độc nhất của quốc gia phát hành đồng ngoại tệ dự trữ hàng đầu thế giới".

Tương tự, tuần trước, Cơ quan xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings cũng giữ nguyên mức xếp hạng AAA đối với nợ công của Mỹ, dù nước này đối mặt với nguy cơ gia tăng tình trạng thất nghiệp và suy thoái kinh tế do tác động của dịch Covid-19. Theo Fitch, xếp hạng nợ của Mỹ được đảm bảo nhờ những thế mạnh về cơ cấu như quy mô nền kinh tế, thu nhập bình quân đầu người cao và môi trường kinh doanh năng động.
NAM SƠN (tổng hợp)
Cùng chuyên mục
Kinh tế Mỹ trước "bóng ma" suy thoái