Kết quả kiểm toán các tổ chức tài chính ngân hàng năm 2018: Nhiều kết quả tích cực song còn không ít khó khăn

(BKTO) - Kiểm toán báo cáo tài chính, các hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước năm 2018 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và 10 tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, KTNN ghi nhận những đóng góp tích cực của chính sách tiền tệ đối với tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, kết quả kiểm toán cũng chỉ ra những khó khăn trong hoạt động của hệ thống các tổ chức tài chính, ngân hàng.




KTNN đã chỉ ra những khó khăn trong hoạt động của hệ thống các tổ chức tài chính, ngân hàng. Ảnh: M.Thúy

Kinh doanh có lãinhưng đầu tư không hiệu quả

Theo đánh giá của KTNN, năm 2018, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ góp phần kiểm soát lạm phát cơ bản bình quân cả năm 1,48%, lạm phát bình quân ở mức 3,54%; góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đạt 7,08%; tỷ giá và thị trường ngoại tệ cơ bản ổn định, dự trữ ngoại hối nhà nước tăng 12%. Hầu hết các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm được kiểm toán đều đảm bảo các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động và kinh doanh có lãi. Điển hình như, lợi nhuận trước thuế của Ngân hàng Thương mại cổ phần (NHTMCP) Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) là 9.391 tỷ đồng; NHTMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank) 6.558 tỷ đồng; NH Hợp tác xã 212 tỷ đồng…), Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chênh lệch thu chi dương 118,8 tỷ đồng.

Tuy nhiên, kết quả kiểm toán cũng chỉ rõ, lãi suất cho vay bình quân năm 2018 tăng so với năm 2017, không đạt mục tiêu giảm lãi suất cho vay theo Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ. Một số tổ chức tín dụng (TCTD) tăng trưởng tín dụng vượt mức tối đa cho phép của NHNN như: NHTMCP Đại chúng Việt Nam 568 tỷ đồng; NHTMCP Bảo Việt 443 tỷ đồng; NHTMCP Việt Á 427 tỷ đồng; Công ty Tài chính Kexim Việt Nam 354 tỷ đồng…

Đáng chú ý, một số đơn vị đầu tư tài chính không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp. Cụ thể như, Tổng công ty Bảo hiểm Bưu điện (PTI) lãi từ hoạt động đầu tư ngắn hạn và dài hạn chỉ đạt 0,1%/năm, thấp hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn tại các NHTM, đến ngày 31/12/2018 phải trích lập dự phòng các khoản đầu tư 163 tỷ đồng. Đơn vị này góp 88 tỷ đồng thành lập Công ty CP Bất động sản Bưu điện từ năm 2008 chỉ nhận được 1 tỷ đồng cổ tức, đến ngày 31/12/2018 lỗ lũy kế 0,5 tỷ đồng; ủy thác đầu tư 34 tỷ đồng thời hạn 2 năm cho Công ty CP Bất động sản Bưu điện để đầu tư Dự án Biệt thự nghỉ dưỡng hồ Tuyền Lâm, Đà Lạt, tuy nhiên, Dự án chậm tiến độ, hết thời hạn ủy thác chưa thu hồi được vốn đầu tư phải gia hạn hợp đồng ủy thác; khoản ủy thác cho vay 45 tỷ đồng để Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long cho vay Công ty CP Vận tải biển VISHIP đã quá hạn từ năm 2011, thu hồi từ việc bán đấu giá tài sản được 6,6 tỷ đồng, số còn lại phải trích lập dự phòng 100%.

Tương tự, tại Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC), đến ngày 31/12/2018 trích lập dự phòng 239/711 tỷ đồng vốn đầu tư; năm 2018 không được nhận cổ tức từ 25 đơn vị DATC đầu tư dưới hình thức chuyển nợ thành vốn góp (580 tỷ đồng) do các đơn vị hoạt động cầm chừng, sản xuất kinh doanh thua lỗ. Công ty Bảo hiểm Bảo Việt (BHBV) phải trích lập dự phòng 100% khoản đầu tư 72 tỷ đồng tiền gửi tại Công ty CP Cho thuê tài chính II Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, 95% khoản đầu tư 190 tỷ đồng trái phiếu Vinashin; đã thanh lý hợp đồng ủy thác BIDV cho Công ty TNHH Đèn hình Orion Hannel vay vốn năm 2004 nhưng chưa thu được 25,4 tỷ đồng tiền lãi.

Tại Vietinbank, khoản đầu tư trái phiếu DN có khả năng mất vốn 1.070 tỷ đồng, với số lãi chưa thu được 532 tỷ đồng. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) góp 3.690 tỷ đồng vào Tổng công ty Phát triển hạ tầng và Đầu tư tài chính Việt Nam để đầu tư Dự án Đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng song Dự án chưa cân đối được dòng tiền, không thu được lợi nhuận từ khi góp vốn năm 2007.

Kết quả kiểm toán cũng cho thấy, một số đơn vị hạch toán doanh thu, thu nhập, chi phí chưa phù hợp, chính xác như: hạch toán thừa lãi dự thu, thừa chi phí dự phòng… Bên cạnh đó, hầu hết các TCTD được kiểm toán còn sai sót về trình tự, thủ tục cho vay như: thẩm định thiếu chặt chẽ, định kỳ chưa đánh giá lại tài sản bảo đảm, không kiểm soát, giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay...

Xử lý nợ xấu đạt nhiềukết quả khích lệ

Bên cạnh kiểm toán báo cáo tài chính, năm 2019, KTNN đã thực hiện kiểm toán chuyên đề Việc triển khai, thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết 42). Kết quả kiểm toán cho thấy, tình hình xử lý nợ xấu của toàn hệ thống từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực (ngày 15/8/2017) đã đạt được những kết quả khích lệ. Tổng số nợ xấu đủ điều kiện xử lý theo Nghị quyết 42 tại các TCTD đến ngày 31/12/2018 là 523.706 tỷ đồng, giảm 35.521 tỷ đồng so với thời điểm 31/12/2017. Tổng số nợ xấu được xử lý từ ngày 15/8/2017 đến ngày 31/12/2018 là 198.841 tỷ đồng, với mức xử lý trung bình hằng tháng cao hơn giai đoạn trước khi ban hành Nghị quyết. Đồng thời, ý thức trả nợ của khách hàng vay được cải thiện với hình thức thu nợ chủ yếu là do khách hàng tự trả nợ, với giá trị 81.564 tỷ đồng, tương ứng 41% nợ nội bảng được xử lý, cao hơn giai đoạn 2012-2017 (đạt 22,8% nợ nội bảng được xử lý).

Tuy nhiên, kết quả kiểm toán cũng chỉ rõ, tỷ lệ hồ sơ xử lý theo Nghị quyết 42/tổng số hồ sơ cần xử lý và tỷ lệ nợ xấu thu hồi được/tổng dư nợ xấu đã xử lý thấp. Bên cạnh đó, việc thu hồi nợ chủ yếu từ thu giữ tài sản bảo đảm và bán nợ theo giá thị trường, một số biện pháp khác chưa được thực hiện; một số TCTD chưa khởi kiện theo thủ tục rút gọn đối với hồ sơ đã đủ điều kiện; hầu hết các hợp đồng bảo đảm không có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật.

KTNN cũng chỉ ra, một số Bộ, ngành chưa hướng dẫn đầy đủ, kịp thời một số nội dung liên quan đến xử lý nợ xấu. Cụ thể, Bộ Tài nguyên và Môi trường chưa hướng dẫn thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất trong trường hợp cá nhân mua nợ và nhận chính tài sản bảo đảm của khoản nợ để cấn trừ, mua tài sản bảo đảm thu giữ theo quy định của Nghị quyết 42 nhưng không có chữ ký của chủ tài sản trong biên bản bàn giao, dẫn đến chưa thực hiện đăng ký biến động đất đai cho người trúng đấu giá tài sản thu giữ. Bộ Tư pháp chưa hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai của khoản nợ xấu theo Điều 9 Nghị quyết 42 trong trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp không có sự đồng thuận; việc xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản theo Điều 10 Nghị quyết 42 trong trường hợp không có chữ ký của chủ tài sản. Bộ Tài chính cũng chưa thống nhất việc xử lý về nghĩa vụ thuế phát sinh trong trường hợp tiền thu từ xử lý tài sản bảo đảm không đủ thanh toán cho các nghĩa vụ bảo đảm tại TCTD. Bộ Công an chưa hướng dẫn cụ thể việc hỗ trợ TCTD trong công tác thu giữ tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu... Việc giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm theo tinh thần Nghị quyết 42 còn chậm. Tính đến ngày 31/8/2019, chưa có vụ việc nào được xét xử theo thủ tục rút gọn.

Đ.KHOA
Cùng chuyên mục
Kết quả kiểm toán các tổ chức tài chính ngân hàng năm 2018: Nhiều kết quả tích cực song còn không ít khó khăn