Sửa Luật Doanh nghiệp, cần khái niệm rõ về doanh nghiệp nhà nước

Đối nội - Ngày đăng : 08:10, 05/08/2019

(BKTO) - Luật DN năm 2014 quy định DNNN là DN 100% vốn nhà nước. Nhưng Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa XII ban hành ngày 03/6/2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN nêu rõ: DNNN là DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối. Để thể chế hóa quan điểm của Đảng, tất yếu phải sửa đổi Luật DN, trong đó cần đưa ra một khái niệm rõ ràng về DNNN.


Có 4 phương án đề xuất quy định về DNNN

Theo ông Lê Song Lai - Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC), việc sửa đổi khái niệm DNNN tại Luật DN sửa đổi cần đảm bảo tính hợp lý, khả thi, phù hợp với bối cảnh thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả của DN nói chung, hiệu quả quản trị DN nói riêng. Việc sửa đổi khái niệm DNNN sẽ mở rộng phạm vi, đối tượng được áp dụng và thay đổi cách quản trị của các DN này khi phải tuân thủ hàng loạt các luật và các quy định về nhân sự, kiểm toán, thanh tra…

Đóng vai trò Thường trực Tổ biên tập Luật DN, TS. Phan Đức Hiếu - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế T.Ư (CIEM) - cho biết, hiện có 4 phương án quy định khái niệm DNNN tại Dự thảo Luật DN sửa đổi.

Một là, xét trên tiêu chí cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước tại DN, trong đó tỷ lệ vốn Nhà nước đạt trên 65% vốn điều lệ, đây là mức độ chi phối tuyệt đối, nhà nước quyết định tất cả các vấn đề hệ trọng của DN. Hai là, tỷ lệ vốn nhà nước đạt trên 50% vốn điều lệ, mức chi phối chủ động, quyết định phần lớn các vấn đề của DN, trong đó có các vấn đề về nhân sự, điều lệ. Ba là, tỷ lệ vốn nhà nước đạt trên 35% vốn điều lệ đã được coi là DNNN vì có quyền phủ quyết định hướng DN. Bốn là, chỉ cần có vốn nhà nước là có quyền trực tiếp, gián tiếp bổ nhiệm thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, quyết định những vấn đề lớn không phụ thuộc vào tỷ lệ sở hữu vốn.

Tuy nhiên, các phương án mở rộng khái niệm đối tượng là DNNN đang tạo ra nhiều tranh luận trái chiều cũng như tâm lý lo ngại ảnh hưởng, nhất là đối với các DN có vốn nhà nước chi phối - TS. Phan Đức Hiếu cho biết. Vì thế, Ban Soạn thảo sẽ tiếp tục cân nhắc thận trọng và dựa trên đánh giá tác động thực tế để lựa chọn phương án đề xuất. Ban Soạn thảo hiện đang xem xét theo hướng đề xuất phân thành 2 loại DNNN, gồm DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn và DN do Nhà nước nắm giữ chi phối trên 50%.

Ngay cả với phương án đề xuất rút gọn hơn này, ông Phạm Đức Trung - Trưởng ban Nghiên cứu cải cách và phát triển DN (CIEM) - cho biết, số lượng DNNN ngay lập tức sẽ tăng lên. Bởi, số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tính đến đầu năm 2018, tổng số DN 100% vốn nhà nước thuộc mọi cấp quản lý là 1.204 DN. Bên cạnh đó, số công ty cổ phần có cổ phần nhà nước trên 50% thuộc mọi cấp độ bao gồm cả công ty con các cấp của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 1.282 DN. Nếu mở rộng khái niệm DNNN thì theo tính toán của CIEM, sẽ có thêm ít nhất 1.280 công ty cổ phần “khoác áo” DNNN.

Cần đánh giá những tác động khi điều chỉnh

Không chỉ đề cập thuần túy đến sự tăng về mặt số học, các nhà nghiên cứu của CIEM còn nêu rõ vấn đề đáng chú ý là số DN tăng lên này sẽ trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật về DNNN, theo đó chịu tác động trực tiếp của nhiều luật mà trước đây không bị chi phối. Cụ thể gồm: Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật NSNN, Luật Quản lý tài sản công, Luật Tiếp cận thông tin, Bộ luật Dân sự, Luật Thủy lợi, Luật Lâm nghiệp và Luật KTNN. Trong đó, 3 luật chắc chắn sẽ có tác động trực tiếp ngay đối với toàn bộ số DN tăng thêm là Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng và Luật NSNN.

Tuy nhiên, trình bày kết quả nghiên cứu của CIEM, ông Phạm Đức Trung nhấn mạnh: Việc xác định để đưa ra phương án điều chỉnh cuối cùng cần cân nhắc tâm lý của thị trường, nhà đầu tư, các cổ đông hiện hữu, đặc biệt là nếu tính tới phương án mở rộng tối đa khái niệm DNNN tới mức tỷ lệ 35% vốn nhà nước thì phải cân nhắc đến phản ứng của nhà đầu tư có thể không tích cực. Thậm chí, ở nhiều DN, nhà đầu tư hiện đã nắm trên 50% vốn mà Nhà nước có quyền quyết định thì sẽ gây tâm lý tiêu cực, có thể khiến nhà đầu tư thoái vốn, gây tác động lớn tới thị trường.

Theo phân tích của Luật sư Phan Vũ Anh - Đoàn Luật sư Hà Nội, nếu mở rộng khái niệm DNNN thì tiến trình cổ phần hóa, đổi mới DN sẽ bị ảnh hưởng, bởi chỉ riêng việc xử lý, sắp xếp tài sản công, định giá tài sản, đất đai cũng đã thêm rắc rối, phức tạp, chưa kể đến hàng loạt vấn đề có thể phát sinh trong nội bộ cơ cấu DN. Giả sử nếu mở rộng toàn bộ DN trên 50% vốn nhà nước cũng trở thành DNNN, vào cùng “sân chơi” với DN 100% vốn nhà nước thì sẽ vi phạm ngay quyền biểu quyết của các cổ đông, chính là những người mà ta đang khuyến khích bỏ tiền ra mua cổ phần khi muốn thu hút nhà đầu tư tham gia cổ phần hóa.

Một khía cạnh khác, Luật sư Phan Vũ Anh cho rằng, với việc mở rộng khái niệm đưa DN có trên 50% vốn nhà nước thành DNNN thì nhiều DN sẽ cố chứng minh rằng lĩnh vực họ đang hoạt động Nhà nước không cần nắm chi phối, chỉ cần nắm khoảng 36% chẳng hạn, thì các quy định cũng không có ý nghĩa nữa. Còn những DN mà Nhà nước đang nắm chi phối sẽ tìm mọi cách thúc đẩy thoái vốn để thoát khỏi “cái áo” DNNN.
Ông Hoàng Trường Giang - Vụ Kinh tế tổng hợp, Ban Kinh tế T.Ư - cho rằng, với mục tiêu đến năm 2020 cơ bản thoái toàn bộ vốn ở những DN mà Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn trong những lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ, nếu hoàn thành thì thực tế các DN đó đã trở thành DN tư nhân, nên giả sử có quy định DNNN là DN mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn thì cũng không ảnh hưởng, vì số lượng các DNNN không còn nhiều. Tôi cho rằng, có thể cân nhắc tỷ lệ Nhà nước nắm giữ 51% và 65% vốn điều lệ trở lên để xây dựng khái niệm DNNN. Nếu chọn tỷ lệ 65% thì số lượng DNNN sẽ giảm đi và tập trung vào những lĩnh vực quan trọng mà Nhà nước cần nắm giữ…

Được biết, hiện nay, CIEM vẫn đang tiếp tục tiếp thu ý kiến của các đại biểu để xây dựng, thiết kế các điều khoản cụ thể của Dự án Luật DN sửa đổi, trong đó có việc làm rõ khái niệm như thế nào là DNNN.

QUỲNH ANH
Theo Báo Kiểm toán số 31 ra ngày 01/8/2019