Đề xuất tăng thuế xuất khẩu, giảm thuế nhập khẩu với một số mặt hàng thép

Đầu tư - Ngày đăng : 04:24, 16/07/2021

(BKTO) - Bộ Tài chính vừa đề xuất sửa đổi mức thuế xuất khẩu, mức thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng tăng giá mạnh thời gian qua, trong đó có mặt hàng phôi thép và thép xây dựng nhằm góp phần hạ giá mặt hàng thép xây dựng, thúc đẩy các DN giảm chi phí trong bối cảnh giá nguyên liệu tăng cao.


                
   

Bộ Tài chính đề xuất tăng thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng phôi thép từ
   0% lên 5%. Ảnh: TTXVN.

   

Bộ Tài chính cho biết, thời gian qua, với nhiều chính sách phù hợp, trong đó có chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, ngành thép đã duy trì tốc độ tăng trưởng khá, từng bước tự chủ được công nghệ và năng lực sản xuất phôi thép, thép xây dựng, đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng trong nước và xuất khẩu.

Năng lực sản xuất phôi thép của Việt Nam hiện nay đạt khoảng 24 triệu tấn/năm. Năm 2020, sản xuất phôi thép đạt 17,21 triệu tấn, bằng 70% năng lực sản xuất. Trong 4 tháng đầu năm 2021, sản lượng phôi thép sản xuất trong nước đạt khoảng 7,13 triệu tấn, tăng 35% so với cùng kỳ năm 2020. Cùng với phôi thép, sản lượng thép thành phẩm của Việt Nam cũng tăng trưởng cao, sản lượng sản xuất năm 2021 tăng gấp 2 - 4 lần so với năm 2011 (tùy chủng loại).

5 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu sắt thép tiếp tục tăng cả về số lượng và kim ngạch (đạt 4,85 triệu tấn, tăng 60% so với cùng kỳ năm ngoái; kim ngạch xuất khẩu đạt 3,6 tỷ USD, tăng 113% so với cùng kỳ). Cũng trong thời gian này, nhập khẩu sắt thép tăng cả về số lượng và kim ngạch, trong đó, lượng nhập khẩu đạt 6 triệu tấn, tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái, kim ngạch nhập khẩu đạt 4,79 tỷ USD, tăng 39% so với cùng kỳ.

Theo Bộ Tài chính, gần đây, giá thép xây dựng trong nước liên tục tăng mạnh chủ yếu do tăng giá nguyên liệu sản xuất thép và ngành thép phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu từ bên ngoài. Việc giá thép tăng cao đã ảnh hưởng lớn đến tiến độ, giải ngân cũng như chi phí dự phòng của các dự án, đặc biệt các dự án đầu tư công; ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của nhiều ngành sản xuất.

Bên cạnh đó, mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối một số loại sắt thép xây dựng đã được áp dụng trong một thời gian dài với mức tương đối cao (lên đến 15%, 20% và 25%).

Để góp phần hạ giá mặt hàng thép xây dựng, thúc đẩy các DN giảm chi phí, đặc biệt trong bối cảnh giá nguyên liệu tăng cao, Bộ Tài chính trình Chính phủ phương án điều chỉnh mức thuế suất thuế xuất khẩu đối với mặt hàng phôi thép và mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN của một số loại sắt thép.

Cụ thể, về thuế xuất khẩu phôi thép, Bộ Tài chính trình Chính phủ điều chỉnh tăng thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng phôi thép (nhóm 72.06 và 72.07) từ 0% lên 5%. Thực hiện theo phương án này sẽ góp phần ổn định nguồn cung phôi thép cho thị trường trong nước, bình ổn giá trên thị trường và hạn chế được việc xuất khẩu phôi thép để giữ cho sản xuất trong nước, đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành thép trong dài hạn.

Về thuế nhập khẩu MFN với một số mặt hàng thép, trên cơ sở phân tích hiện trạng và góp phần giảm giá thép nguyên liệu đầu vào, Bộ Tài chính trình Chính phủ giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với một số mặt hàng thép.

Theo đó, điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế MFN đối với thép cốt bê tông thuộc nhóm 72.13, 72.14, 72.15 từ 20% xuống 15%; đối với thép góc, khuôn, hình thuộc nhóm 72.16 và thép có răng khía thuộc nhóm 72.13 từ 15% xuống 10%.

Điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với nhóm sắt thép không hợp kim cán phẳng thuộc 8 mã hàng của nhóm 72.10 từ mức 20% và 25% xuống 15%.

Bộ Tài chính đánh giá, việc giảm mức thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng nêu trên tuy có làm giảm thu NSNN nhưng mức ảnh hưởng không lớn do nhu cầu nhập khẩu các loại sắt thép này không cao. Đây là những loại thép trong nước đã sản xuất được và cơ bản đáp ứng được nhu cầu.

Việc điều chỉnh này sẽ góp phần thúc đẩy các DN sản xuất thép trong nước đầu tư, đổi mới công nghệ để giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh đối với các sản phẩm thép nhập khẩu, qua đó góp phần bình ổn thị trường trong nước, đồng thời, thúc đẩy ngành thép phát triển bền vững./.
THÙY ANH