Sửa đổi Luật Dầu khí để tháo gỡ rào cản, tạo dựng môi trường đầu tư thuận lợi

(BKTO) - Thời gian qua, Bộ Công Thương đã phối hợp các Bộ, ban, ngành liên quan tổ chức trao đổi, thảo luận, lấy ý kiến rộng rãi nhằm xây dựng Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi), trong đó tập trung vào nhiều nội dung, nhóm chính sách quan trọng để tháo gỡ những rào cản, tạo dựng môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp dầu khí.



                
   

Công trình dầu khí ngoài biển khơi. Ảnh: PVN

   

Tháo gỡ rào cản, khơi thông dòng thu hút đầu tư

Theo ghi nhận của Bộ Công Thương, đông đảo các nhà thầu, chuyên gia dầu khí, cán bộ, người lao động trực tiếp tham gia các dự án dầu khí đã chỉ ra những vướng mắc cần tháo gỡ trong Luật Dầu khí hiện hành, đặc biệt là các vấn đề mang tính đặc thù theo thông lệ quốc tế như: địa vị pháp lý của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, tích hợp trình tự thủ tục của việc quản lý hợp đồng dầu khí và quản lý dự án đầu tư, ưu đãi đầu tư vào lĩnh vực dầu khí… Do đó, cần phải sửa đổi Luật Dầu khí để hướng đến tăng cường huy động đầu tư trong nước và quốc tế vào lĩnh vực dầu khí, khai thác hiệu quả tài nguyên phục vụ cho lợi ích quốc gia.

Không ai có thể phủ nhận ngành dầu khí đã có rất nhiều đóng góp quan trọng trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, tăng trưởng kinh tế và bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia trên biển. Tuy nhiên, bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thay đổi, cùng với đó là những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động dầu khí, các chuyên gia cho rằng, việc sửa đổi Luật Dầu khí đang là vấn đề cấp bách.
         
Luật Dầu khí đã được Quốc hội thông qua ngày 06/7/1993. Đây là bước khởi đầu hình thành khung pháp lý cho hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí trên phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Đến nay, Luật Dầu khí đã trải qua 2 lần sửa đổi (vào năm 2000 và 2008) nhưng vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc.

Theo Bộ Công Thương, nhiều quy định trong Luật Dầu khí hiện hành không còn phù hợp hoặc chưa đồng bộ, chồng chéo với các quy định pháp luật khác. Đơn cử, các DNNN như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tổng Công ty Thăm dò Khai thác dầu khí phải tuân thủ quy định của Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, nhưng quy định trong Luật này lại chưa đồng bộ với Luật Dầu khí về các bước phê duyệt dự án tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí.

Thực tế cho thấy, nhiều mỏ dầu khí đã qua giai đoạn khai thác đỉnh cao, đang trong đà suy giảm mạnh về sản lượng. Các lô dầu khí mở có tiềm năng hạn chế, trữ lượng nhỏ, thuộc vùng nước sâu, xa bờ, hoặc có địa chất phức tạp, kết hợp với giá dầu biến động khó lường, nên công tác kêu gọi đầu tư gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi đó, các quy định về ưu đãi đầu tư đối với các dự án dầu khí theo lô đã được ban hành từ năm 2005, đến nay, một số tiêu chí đã không còn phù hợp (nhất là đối với những dự án ở vùng nước sâu xa bờ) và chưa có chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với các dự án dầu khí theo lô, mỏ tận thu dầu khí, mỏ cận biên, thăm dò khai thác dầu khí phi truyền thống...

Do đó, Luật Dầu khí (sửa đổi) được kỳ vọng không chỉ tăng cường hiệu quả, hiệu lực trong quản lý nhà nước, mà còn loại bỏ rào cản, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho nhà đầu tư, góp phần cải thiện mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư trong lĩnh vực dầu khí. Bởi Luật sẽ bổ sung quy định về nguyên tắc xác định các lô dầu khí được hưởng các chính sách ưu đãi đầu tư và ưu đãi đầu tư đặc biệt.

Nên có ưu đãi về thuế để hấp dẫn doanh nghiệp

Theo Bộ Công Thương, đối với các lô dầu khí được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt, Dự thảo Luật quy định mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25%, thuế suất thuế xuất khẩu dầu thô là 5% và mức thu hồi chi phí tối đa 80% sản lượng dầu khí khai thác được trong năm. Mức thuế suất ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp 25% sẽ được áp dụng cho hợp đồng dầu khí của lô dầu khí được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt ngay sau khi Luật Dầu khí (sửa đổi) có hiệu lực.

Cùng với đó, trong hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí, doanh nghiệp được áp thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ 25% đến 50% và trong hoạt động khai thác tài nguyên quý hiếm khác được áp thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ 32% đến 50% phù hợp với từng dự án, từng cơ sở kinh doanh. Đề xuất này dựa trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo chính sách của một số nước trong khu vực có hoạt động dầu khí tương đồng với Việt Nam. Cụ thể, mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của Thái Lan là 20%, Malaysia 25%, Trung Quốc 25%, Myanmar 30%; mức thu hồi chi phí (tối đa) của Malaysia là 75%, Indonesia 90%.

Thẩm tra Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) trước khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trong phiên họp thứ 10 diễn ra vào giữa tháng 4/2022, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Phan Đức Hiếu cho rằng, với chính sách thuế toàn cầu thì ưu đãi về thuế tại Dự thảo Luật không còn nhiều lợi thế, cần phải có cơ chế ưu đãi đặc biệt theo nhu cầu của nhà đầu tư mà hai bên đều tìm thấy lợi ích chung.

Ông Đặng Quyết Tiến - Cục trưởng Cục tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) cũng cho rằng, cần tiếp tục nghiên cứu để đưa ra bộ ưu đãi đầu tư hợp lý, trong đó công cụ thuế vẫn có những tác dụng thiết thực.

Theo đại diện Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng đang diễn ra mạnh mẽ, việc sửa đổi Luật Dầu khí là cần thiết để tạo cơ sở cho Tập đoàn thực hiệntốt chiến lược phát triển trong giai đoạn tới, đảm bảo phát triển bền vững, tiếp tục đóng góp cho kinh tế đất nước, đảm bảo an ninh quốc gia trên biển…

Hiện nay, thực hiện nhiệm vụ được Chính phủ giao, Bộ Công Thương vẫn đang tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) để gửi Bộ Tư pháp thẩm định, trước khi Chính phủ trình ra Quốc hội./.

PHÚC KHANG
Cùng chuyên mục
Sửa đổi Luật Dầu khí để tháo gỡ rào cản, tạo dựng môi trường đầu tư thuận lợi