Cởi trói chính sách, điện nông thôn bừng sáng

(BKTO) - Được cởi trói về cơ chế và chính sách, việc cải thiện lưới điện hạ áp nông thôn của Việt Nam đã đóng góp rất lớn cho phát triển kinh tế các địa phương nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng. Đây là đánh giá được đưa ra khi cùng nhìn lại kết quả 22 năm thực hiện Nghị quyết của Quốc hội Khóa X về tiếp nhận lưới điện hạ áp nông thôn.



Chính sách đúng, điện nhanh chóng về nông thôn

Tháng 11/1997 là một dấu mốc quan trọng, tạo tiền đề cho việc phát triển lưới điện hạ áp nông thôn của Việt Nam khi Nghị quyết kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khóa X nêu: Giao cho ngành điện xây dựng quy chế trực tiếp quản lý lưới điện nông thôn, tính lại giá bán điện hợp lý, trước mắt công bố giá trần áp dụng đối với nông thôn; cùng các Bộ hữu quan lập phương án trình Chính phủ quyết định việc đầu tư xây dựng các công trình điện nông thôn theo tinh thần “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
                
   

Đưa điện về nông thôn. Nguồn: EVN

   
Đến Nghị quyết Kỳ họp thứ 4 của Quốc hội khóa X (từ 28/10-2/1998), Quốc hội đã cụ thể hóa một trong những chỉ tiêu quan trọng: “Phấn đấu nâng số xã có điện lên 71%. Ban hành quy chế ngành điện lực trực tiếp quản lý lưới điện nông thôn”. Song hành với đó là các chỉ đạo kịp thời, quyết liệt của Chính phủ trong việc hiện thực hóa các chỉ tiêu về lưới điện hạ áp nông thôn.

Đến nay, sau 22 năm thực hiện và triển khai Nghị quyết kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khóa X, ngành điện đã khắc phục được những hạn chế, yếu kém của lưới điện hạ áp nông thôn - một trong những yếu tố cản trở sự phát triển kinh tế địa phương vì những yếu kém từ cơ sở hạ tầng, khả năng quản lý và vận hành của cấp cơ sở, vượt khó khăn đưa lưới điện hạ áp nông thôn về đích trước thời gian Quốc hội quy định.

Minh chứng rõ nét nhất là vào thời điểm những năm 1997, điện lưới quốc gia mới được cung cấp đến 426/470 huyện, đạt tỷ lệ 90,6%; 5.698/9.022 xã, đạt tỷ lệ 63,2% và 6.031/11.881 nghìn hộ dân nông thôn sử dụng điện lưới quốc gia, tức là mới chỉ có 50,76% hộ dân nông thôn cả nước tương đương hơn 30 triệu người chưa được sử dụng điện. Nhưng đến năm 2010, cả nước đã có 100% số huyện có điện; năm 2018 có 100% xã có điện và đến nay có 99,47% hộ dân có điện, trong đó có 99,18% hộ dân nông thôn có điện. Mức độ phủ điện của Việt Nam đã cao hơn một số nước trong khu vực như Philippines 93%, Indonesia 98,1%, Ấn Độ 92,6%, Lào 93,6%.
                
   

Quá trình phát triển lưới điện hạ áp nông thôn. Nguồn: EVN

   
Hỗ trợ đắc lực cho nông thôn đổi mới, phát triển

Khi tổng kết 15 năm điện khí hóa nông thôn và vận động ODA cho Việt Nam để thực hiện Chương trình Điện khí hóa nông thôn, bà Victoria Kwakwa, nguyên Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam đã cho biết, Việt Nam đã thành công rất ấn tượng trong điện khí hóa nông thôn, trở thành mô hình mà WB muốn nhân rộng ở nhiều nước.

Để có được kết quả khả quan và đáng khích lệ trên, ngành điện, mà trực tiếp là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), đã thực hiện một khối lượng công việc rất lớn để cải tạo và đầu tư xây dựng mới lưới điện nông thôn. Tổng số vốn đầu tư đã lên tới hơn 120.000 tỷ đồng, trong đó riêng nguồn vốn vay ODA của các tổ chức quốc tế là hơn 78.300 tỷ đồng (tương đương 3,7 tỷ USD).

Cùng với việc tiếp nhận lưới điện hạ áp nông thôn thôn, EVN cũng thực hiện tiếp nhận lưới điện và cung cấp điện trực tiếp tại 11/12 huyện đảo: Cát Hải, Bạch Long Vỹ, Vân Đồn, Cô Tô, Cồn Cỏ, Lý Sơn, Phú Quý, Trường Sa, Côn Đảo, Phú Quốc, Kiên Hải. Sau khi tiếp nhận, EVN đã đầu tư tăng cường hệ thống điện, cấp điện bằng lưới điện quốc gia cho các huyện đảo với tổng vốn đầu tư hơn 7.500 tỷ đồng.
                
   

Số vốn đầu tư lưới điện nông thôn. Nguồn: EVN

   
Công tác quản lý cung cấp điện tại khu vực nông thôn được ngành điện thực hiện thông qua giải pháp tích cực phối hợp với các địa phương tập trung tiếp nhận lưới điện hạ áp nông thôn thôn; giải quyết những bất cập khi các tổ chức quản lý điện địa phương không đủ năng lực quản lý, hộ dân nông thôn phải đóng góp nhiều chi phí và mua điện với giá cao.

Từ xuất phát điểm ngành điện chỉ quản lý bán điện trực tiếp tại 2.126/8.841 xã có điện- chiếm tỷ lệ 24%, ngành điện đã thực hiện tiếp nhận lưới điện hạ áp nông thôn của hơn 6.000 xã, cung cấp điện trực tiếp tới các hộ dân nông thôn. Sau khi ngành điện tiếp nhận cải tạo đầu tư với số vốn tối thiểu bình quân mỗi xã khoảng 1,5 tỷ đồng, nhu cầu sử dụng điện của các hộ dân nông thôn đã được đáp ứng ngay sau khi tiếp nhận. Hơn nữa, ngành điện còn xây dựng kế hoạch đầu tư cho mỗi xã khoảng 5-10 tỷ đồng để hoàn chỉnh hệ thống điện.

Với tỷ lệ 100% số xã, phường, thị trấn có điện, việc chuyển cho EVN tiếp nhận và vận hành lưới điện hạ áp nông thôn đã cho thấy sự đúng đắn, kịp thời trong việc thay đổi cơ chế chính sách phù hợp với thực tiễn. Tiếp nhận lưới điện hạ áp nông thôn, tăng tỷ lệ hộ dân được cung cấp điện lên tới 99,18% đã góp phần thực hiện thành công Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế tại mọi vùng miền tổ quốc, riêng lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp đã tiếp đà tăng trưởng tốt trên 2% liên tục trong 5 năm qua.

PHÚC KHANG
Cùng chuyên mục
Cởi trói chính sách, điện nông thôn bừng sáng