Củng cố vững chắc nền an sinh xã hội đất nước

(BKTO) – Qua 27 năm xây dựng và phát triển của ngành Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, diện bao phủ BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) tăng trưởng nhanh qua từng năm, góp phần mở rộng hiệu quả lưới an sinh xã hội tới mọi người dân, người lao động, củng cố vững chắc nền an sinh xã hội của đất nước.



Cơ bản hoàn thành mục tiêu bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân

Ngày 16/2/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 19-CP thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống Lao động - Thương binh và Xã hội và Liên đoàn Lao động. Hệ thống BHXH Việt Nam được tổ chức và quản lý tập trung, thống nhất từ cấp Trung ương đến cấp quận, huyện.

Trải qua 27 năm xây dựng và phát triển, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; sự cố gắng nỗ lực của tập thể công chức, viên chức (CCVC) toàn Ngành qua nhiều thế hệ, ngành BHXH Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, từng bước khẳng định chính sách BHXH, BHYT là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị, xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.                
   

Số người tham gia BHXH, BHYT, BHTN không ngừng được mở rộng và tăng trưởng ấn tượng. Ảnh: BHXH Việt Nam

   

Diện bao phủ BHXH, BHYT ngày càng được mở rộng ngay cả trong bối cảnh khó khăn chung của đất nước do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19. Đáng chú ý, số người tham gia BHYT tăng trưởng ấn tượng, cơ bản hoàn thành mục tiêu bao phủ toàn dân; số người tham gia BHXH tự nguyện đã đạt vượt chỉ tiêu đề ra tại Nghị quyết số 28-NQ/TW; diện bao phủ BHXH, BHYT đã tập trung vào các nhóm yếu thế.

Số người tham gia BHXH bắt buộc tăng từ 2,3 triệu người năm 1995 lên 12,1 triệu người vào năm 2015 (gấp 5,3 lần so với năm 1995); đạt 15,1 triệu người vào năm 2021 (gấp 1,25 lần so với năm 2015). So với năm 1995, đến nay, số người tham gia BHXH bắt buộc tăng 12,8 triệu người (gấp gần 6,6 lần), bình quân mỗi năm tăng 0,5 triệu người.

Số người tham gia BHXH tự nguyện tăng từ 6 nghìn người năm 2008 lên gần 218 nghìn người vào năm 2015 (gấp 36,3 lần so với năm 2008); đạt 1,45 triệu người vào năm 2021 (gấp 6,65 lần so với năm 2015). So với năm 2008 - năm đầu tiên thực hiện chính sách BHXH tự nguyện, đến nay, số người tham gia BHXH tự nguyện tăng 1,4 triệu người, bình quân mỗi năm tăng trên 100 nghìn người.

Số người tham gia BHYT tăng từ 7,1 triệu người năm 1995 lên 70 triệu người vào năm 2015 (gấp 9,86 lần so với năm 1995); đạt 88,8 triệu người vào năm 2021 (gấp 1,27 lần so với năm 2015), đạt tỷ lệ bao phủ 91,01% dân số. So với năm 1995, đến nay, số người tham gia BHYT tăng 81,7 triệu người (gấp 12,5 lần), bình quân mỗi năm tăng hơn 3 triệu người.

Đồng thời, số người tham gia BHTN tăng từ gần 6 triệu người năm 2009 lên 10,3 triệu người vào năm 2015 (gấp 1,7 lần so với năm 1995); đạt 13,4 triệu người vào năm 2021 (gấp 1,3 lần so với năm 2015). So với năm 2009 - năm đầu tiên chính sách BHTN được áp dụng, đến nay, số người tham gia BHTN tăng 7,41 triệu người (gấp 2,24 lần), bình quân mỗi năm tăng 0,6 triệu người.

Cùng với đó, Quỹ BHXH, BHYT đã trở thành quỹ an sinh lớn nhất, được quản lý, sử dụng đúng mục đích, an toàn, hiệu quả, công khai, minh bạch dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam. Tỷ lệ chi từ nguồn Quỹ BHXH ngày càng tăng, theo đó, tỷ lệ chi từ NSNN cho BHXH ngày càng giảm, khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng trong việc khuyến khích người dân nâng cao năng lực tự bảo đảm an sinh xã hội.

Chuyển đổi phương thức hoạt động, đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho người tham gia

Cùng với những kết quả ấn tượng trong mở rộng lưới an sinh xã hội, công tác giải quyết chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN được Ngành BHXH thực hiện kịp thời, đúng quy định; đặc biệt là việc chuyển đổi hiệu quả phương thức quản lý từ thủ công sang hiện đại, việc giải quyết chế độ BHXH, BHYT căn cứ vào dữ liệu quản lý quá trình tham gia đóng BHXH, BHYT, đảm bảo nguyên tắc "đóng - hưởng"; phương thức hoạt động của hệ thống ngành BHXH Việt Nam được đổi mới theo hướng phục vụ, đẩy mạnh giao dịch điện tử, tăng cường sử dụng các dịch vụ công ích, rút ngắn thời gian giải quyết, giảm phiền hà, đảm bảo quyền lợi cho người lao động và Nhân dân.

Đặc biệt, năm 2020, 2021 trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, kéo dài, BHXH Việt Nam luôn theo sát diễn biến thực tế, thích ứng nhanh, linh hoạt với tình hình dịch bệnh để triển khai hiệu quả các giải pháp nhằm đảm bảo tốt nhất quyền lợi người tham gia.
                
   

Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Thế Mạnh kiểm tra việc hỗ trợ người lao động tại Công ty TNHH TOTO Việt Nam. Ảnh: BHXH Việt Nam

   

Kết quả, từ năm 1995 đến hết năm 2021, toàn Ngành đã giải quyết cho khoảng 135,7 triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe (bình quân mỗi năm trên 5 triệu lượt người hưởng). Từ năm 2010 đến hết năm 2021 giải quyết cho trên 8,7 triệu người hưởng các chế độ BHTN. Đến cuối năm 2021, tổng số người đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng khoảng 3,3 triệu người (tăng 179% so với năm 1995). Từ năm 2003 đến 2021, toàn Ngành đã phối hợp với các cơ sở y tế bảo đảm quyền lợi khám, chữa bệnh (KCB) BHYT cho trên 2.217 triệu lượt người.

Đáng chú ý, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nặng nề đến đời sống, lao động, việc làm của người dân và người lao động, ngành BHXH Việt Nam đã chủ động tích cực và quyết liệt tham gia cùng các Bộ, ngành tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều cơ chế, chính sách, nhất là các Nghị quyết: số 42/NQ-CP, số 68/NQ-CP và số 116/NQ-CP về chính sách hỗ trợ người dân, người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.

Với sự vào cuộc quyết liệt, toàn Ngành đã tập trung mọi nguồn lực sẵn có để đẩy nhanh tiến độ giải ngân; phát huy lợi thế của hệ thống công nghệ thông tin, rút gọn tối đa các công đoạn, thủ tục và thời gian chi trả. Theo đó, các chính sách hỗ trợ đã được triển khai đạt kết quả tốt, góp phần hỗ trợ hàng chục triệu người lao động, người sử dụng lao động vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống, phục hồi sản xuất, kinh doanh.

Tổng số tiền ngành BHXH Việt Nam đã triển khai hỗ trợ theo các gói hỗ trợ của Chính phủ được quy định tại Nghị quyết số 42/NQ-CP, Nghị quyết số 154/2020/NQ-CP; Nghị quyết số 68/NQ-CP và Nghị quyết số 116/NQ-CP từ các Quỹ BHXH, Quỹ BHTN tới người lao động và người sử dụng lao động là gần 44.786 tỷ đồng. Trong đó, nguồn hỗ trợ từ: Quỹ BHTN là hơn 38.000 tỷ đồng; Quỹ Bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp là 4.322 tỷ đồng; Quỹ Hưu trí và tử tuất là 1.905 tỷ đồng.

Những kết quả trên cho thấy quyết tâm chính trị của ngành BHXH Việt Nam trong mọi giai đoạn là luôn ưu tiên đặt công tác đảm bảo quyền lợi của người tham gia, thụ hưởng chính sách làm trung tâm; theo đó, quyền lợi an sinh của người tham gia luôn được quan tâm đảm bảo kịp thời, đúng quy định và càng được đảm bảo tốt hơn trong đại dịch, góp phần củng cố, tạo thêm niềm tin vững chắc của người dân, người lao động đối với các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta.

Qua đó, vị thế của ngành BHXH Việt Nam đã được nâng cao không chỉ trong hệ thống chính trị mà cả trong nhận thức của người dân, trong đánh giá của cộng đồng DN và các tổ chức chuyên ngành trong và ngoài nước.

Đ. KHOA
Cùng chuyên mục
Củng cố vững chắc nền an sinh xã hội đất nước